Triết gia vĩ đại người Hy Lạp Aristotle đã lưu ý rằng “phẩm giá con người không ở những vinh dự nhận được, mà ở chỗ biết rằng mình thực sự xứng đáng với chúng”. Mỗi con người xứng đáng được hưởng một cuộc sống mà trong đó nhân phẩm của mình được trân trọng. Vật lộn sinh tồn trong đại dịch, con người suy ngẫm về thân phận của mình, thấm thía về sự phù du và phi lý của kiếp người, cũng đồng thời thấy rõ giá trị của nhân phẩm hơn bao giờ hết.
Chính quyền ở một xã cho người phá cửa, trói và đưa người phụ nữ là F1 đi cách ly tập trung. Ở một phường, lực lượng chống dịch phá khóa vào nhà, “lôi” một phụ nữ xuống sân, bẻ quặt tay chị để xét nghiệm COVID-19. Ở nơi khác, người ta khóa trái cửa toàn bộ nhà của cư dân là F2 trong một ngõ. Ở nhiều nơi trong thành phố, hàng loạt “chiến lũy” xấu xí được dựng lên đầu các ngõ hẻm, nhiều nơi dùng cả dây thép gai và bêtông. Hàng triệu con người bị nhốt trong những khoảng không gian chật hẹp suốt mấy tháng... Dẫu biết rằng đó là vì chống dịch nhưng những hành động, hình ảnh như vậy vẫn làm cho chúng ta không khỏi đau và buồn. Tự hỏi, liệu có cách nào khác để vừa bảo vệ được sinh mệnh, vừa không làm phẩm giá con người tổn thương?
Trong lịch sử phát triển của tư tưởng loài người, nhân phẩm hay phẩm giá con người được hiểu theo hai cách. Theo cách thứ nhất, nhân phẩm là đặc tính bẩm sinh của con người. Cách hiểu thứ hai, nhân phẩm là sứ mệnh do mỗi cá nhân tự kiến tạo, có được nhân phẩm hay không là tùy vào lối sống, hành xử của mỗi người. Triết gia người Đức Emanuel Kant cho rằng chỉ riêng con người có giá trị tự thân, vì thế có thể tự trọng và tôn trọng phẩm giá người khác, đồng thời có nghĩa vụ với chính mình, không làm nô lệ cho người khác.
Từ thời Hy Lạp cổ đại, qua thời Khai sáng, cho đến các hiến pháp thế kỷ 19, do quan niệm coi nhân phẩm như là đặc tính bẩm sinh của con người nên con người có những quyền tự nhiên từ lúc sinh ra, có sẵn, phải được thừa nhận trong hiến pháp mà không cần phải do Nhà nước tạo ra; thậm chí chúng còn là thước đo tính chính đáng của Nhà nước, của pháp luật. Sang thế kỷ 20, những luận cứ bảo vệ cho pháp quyền tự nhiên bị lung lay, nhưng giá trị cốt lõi vẫn được giữ gìn và được đưa vào đời sống chính trị - pháp lý ở nhiều nước.
Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, nhân phẩm được nâng lên thành giá trị pháp lý tối cao của nhân loại vì kinh nghiệm xương máu từ hai cuộc thế chiến thảm khốc và các chế độ cực quyền nửa đầu thế kỷ 20. Từ đó mà hàng loạt văn kiện quốc tế ra đời và đã ghi nhận trực tiếp hoặc gián tiếp về nhân phẩm: Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945; Tuyên bố phổ quát về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
Từ giữa thế kỷ 20, nhân phẩm được nâng lên thành giá trị pháp lý tối cao toàn cầu trong các công ước quốc tế. Như vậy, bảo vệ nhân phẩm của mỗi con người trước hết là trách nhiệm của Nhà nước và nghĩa vụ của mỗi nhà chức trách. Trong đại dịch COVID-19, đằng sau những số liệu thống kê là hàng triệu con người đã qua đời, hàng chục triệu phận người bị sang chấn tâm lý. Những mất mát, tổn thất vô cùng lớn ấy càng làm cho nhân phẩm của mỗi con người xứng đáng phải được tính đến đầu tiên trong mỗi câu chữ của pháp luật, trong mỗi hành động của nhân viên thực thi pháp luật.
Trong các quốc gia đề cao nhân phẩm, CHLB Đức là trường hợp điển hình, thể hiện qua sự tuyệt giao với quá khứ của chế độ phát xít đã xâm phạm nhân phẩm một cách ghê tởm. Hiến pháp năm 1949 của nước này đặt nhân phẩm lên đầu tiên, tiếp đó là quyền tự do và bình đẳng, sau nữa là các quyền con người khác. Để tránh những bài học cay đắng từ quá khứ, các nhà lập hiến Đức nhấn mạnh sự bất khả xâm phạm của nhân phẩm, coi các quyền con người không phải do Nhà nước ban cho mà vốn có từ lúc sinh ra, chính các quyền đó tạo ra giới hạn hành động của Nhà nước.
Quan trọng hơn, đây không phải là khái niệm chung chung mà là một “khái niệm pháp lý thực tế”, được áp dụng thành công trong đời sống pháp lý thường ngày ở Đức qua các vụ xét xử của Tòa án Hiến pháp CHLB Đức. Vào nửa sau của thế kỷ 20, dưới ảnh hưởng của Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Tòa án Hiến pháp CHLB Đức đã thừa nhận sự kết hợp giữa nhân phẩm với Nhà nước phúc lợi.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 nhấn mạnh tại điều 14: quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết, trong đó có vì lý do sức khỏe của cộng đồng. Như vậy, trọng tâm của quy định này nhằm đặt ra giới hạn, kiểm soát hành vi lạm quyền của cơ quan nhà nước trong một số trường hợp buộc phải hạn chế quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, trong tình trạng khẩn cấp, cơ quan nhà nước không được xâm phạm một số quyền, trong đó có quyền không bị hạ nhục.
Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 quy định rất rõ ràng tại điều 20: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.
Tiếc rằng ngôn ngữ hiến định rất nhân văn nhưng tiến bộ này chưa được hiện thực hóa bằng một cơ chế hiệu quả trên thực tế. Quy định của Hiến pháp chưa được áp dụng trực tiếp, tạo cơ sở pháp lý cho mỗi công dân có thể sử dụng để bảo vệ nhân phẩm của mình khi cần thiết. Nếu có một cơ chế như vậy, những người bị phá cửa, bị trói mang đi cách ly, bị lôi xuống sân và bẻ quặt tay để xét nghiệm có thể đâm đơn kiện; cơ quan bảo hiến sẽ xem xét quy định pháp luật nào điều chỉnh các hành vi xâm phạm nhân phẩm này và sẽ ra phán quyết tương xứng.
Như vậy, Hiến pháp cần tạo ra cơ chế thực tế để bảo vệ nhân phẩm và các quyền tự do khác không bị xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước. Thực ra, theo lời của một giáo sư luật người Đức tại một cuộc hội thảo ở Việt Nam, tỉ lệ thắng kiện của công dân ở Tòa án Hiến pháp CHLB Đức chỉ khoảng 1,5% (người dân Đức nói đùa: “Thà chơi xổ số còn hơn đi kiện ở Tòa án Hiến pháp”). Nhưng 1,5% đó có giá trị làm gương, răn đe đối với các cơ quan công quyền trong việc đối nhân xử thế với công dân; mỗi công dân nhỏ bé đều cảm nhận được vị thế lớn lao của mình. Cảm giác của người dân rất quan trọng, nói như Montesquieu, “tự do xuất phát từ niềm tin rằng được sống trong sự an toàn”. Cơ chế bảo hiến hiệu quả sẽ tạo ra niềm tin ấy, rằng công dân có thể trông cậy vào đó để bảo vệ các quyền tự do của mình, để được sống trong sự an toàn về mặt pháp lý, nhân phẩm được bảo vệ.
Đồng thời với một cơ chế bên ngoài luôn phải sẵn có thì các giá trị tối cao của nhân phẩm còn phụ thuộc nhiều vào lòng tự trọng và tự tin của mỗi con người, vào nhận thức và nhu cầu của mỗi người sử dụng cơ chế đó để bảo vệ nhân phẩm của mình. Bên cạnh nhiều người phẫn nộ lên án các hành vi xâm phạm nhân phẩm trong chống dịch, thật là buồn và đau khi vẫn có những người ủng hộ các hành vi đó. Có lẽ họ vừa không nhận thức được giá trị tự thân, vừa không tôn trọng phẩm giá của người khác.
Với nhân phẩm, theo cách nói của nhà văn Nguyên Ngọc, “con người có thể đi qua tất cả bùn lầy, giữ vững chất người của mình chống lại mọi tình cảnh đen tối nhất muốn trừ diệt chất người của con người”. Châu Âu thế kỷ 14, sau đại dịch tan hoang, con người đột nhiên phát hiện một cảm thức mới mẻ về cuộc đời, trở nên nhạy cảm trước nhu cầu nội tâm hướng tới cái đẹp, được khắc ghi trong nghệ thuật và sáng tạo, từ đó khởi phát phong trào Phục hưng. “Về bản chất, thời Phục hưng là nụ xanh sau mùa đông khắc nghiệt” - một nhà văn Anh từng nhận xét như vậy. Tin rằng những tháng ngày khốc liệt của đại dịch COVID-19 không thể tận diệt nhân phẩm; ngược lại, ý thức về nhân phẩm càng trỗi dậy trong mỗi chúng ta. Chất người của con người vẫn sống. Nụ xanh rồi sẽ tiếp tục đâm chồi.
Trong một tình huống khẩn cấp như đại dịch, các cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng vận hành như mong đợi. Vấn đề là Nhà nước sẽ can thiệp tới đâu và can thiệp những gì.
Bắt đầu từ nhu cầu bắt buộc đầu tiên khi dịch mới chớm bùng phát, là chiếc khẩu trang, rồi tới dung dịch sát trùng, sau đấy là những than phiền về việc phun khử trùng tràn lan trong khi tác dụng còn bỏ ngỏ, rồi tới việc một số quan chức y tế của các CDC lao lý vì nâng giá đến 3 lần thiết bị xét nghiệm, và mới đây nhất là vấn đề giá cả, số lượng và cách thức sử dụng các bộ kit xét nghiệm khiến dư luận chất vấn mấy tuần nay. Nhìn chung, sự lãng phí và trục lợi trong đại dịch gây ra bất an trong dân chúng không kém chính con virus tai ác.
Nhìn dưới góc độ tiêu dùng, các vật tư, thiết bị, sinh phẩm chống dịch có đặc điểm của các sản phẩm khuyến dụng, tức là người dân dù có muốn hay không cũng bắt buộc phải sử dụng, không chỉ để bảo vệ chính họ mà còn vì những mục đích có lợi cho toàn xã hội (dù với một cá nhân cụ thể thì chưa chắc, giống như mũ bảo hiểm hay... bao cao su).
Một đặc điểm khác của sản phẩm khuyến dụng là miễn phí hay giá rất rẻ và nó thường được chi trả từ thuế của công dân đóng - ví dụ như tiêm vắc xin hằng năm cho trẻ con. Điểm khác biệt của các vật tư, thiết bị, sinh phẩm chống dịch là tính tức thời của chi phí và lợi nhuận cơ hội. Ở điểm này, nó giống như thiệp Giáng sinh và phong bao đựng lì xì. Tức là sau ngày đấy thì sẽ không ai mua nữa hoặc nhu cầu sẽ rất ít.
Trong lý thuyết kinh tế và tham nhũng công, dịch bệnh là một tình huống mà ở đó các điều kiện để phát sinh tham nhũng, hối lộ là rõ ràng và thuận lợi nhất.
Ủy ban Phòng chống tham nhũng của Liên minh châu Âu (EU) năm 2020 đã đưa ra các cảnh báo về nguy cơ tham nhũng có thể xảy ra trong đại dịch:
(1) Đơn giản hóa quy trình mua sắm công do tính cấp bách của công tác chống dịch. Điều này tạo nhiều khe hở cho việc trục lợi do thiếu công bằng trong cách tiếp cận nguồn mua, nguồn cung cấp.
(2) Hối lộ để được ưu tiên các dịch vụ y tế do nhu cầu xã hội cao và sự thiếu hụt của nhân sự và thiết bị trong các cơ sở y tế.
(3) Tham nhũng lãng phí trong nghiên cứu, phát triển các sinh phẩm chống dịch.
(4) Gian lận và giả mạo trong cung cấp vật tư, sinh phẩm chống dịch.
(5) Gian lận và hối lộ từ các đơn vị kinh tế tư nhân để được Nhà nước cấp phép sai quy định cho các quy trình chống dịch.
Phải thấy rằng tất cả những “cảnh báo” đó đều đã trở thành hiện thực, ở các mức độ và quy mô khác nhau, tại Việt Nam!
Thẳng thắn hơn, văn phòng Ấn Độ của Tổ chức Minh bạch quốc tế cho rằng: “Mọi khía cạnh của đại dịch COVID-19 đều là cơ hội cho sự trục lợi”. Tổ chức này còn coi tham nhũng trong thời COVID-19 là một đại dịch thứ hai của Ấn Độ.
Và không chỉ có Ấn Độ, nhìn trong khu vực Đông Nam Á, Bộ trưởng Y tế Philippines hồi tháng 8 đã phải lên truyền thông thanh minh về việc không có chuyện “hơn 1 tỉ đôla đã bị lãng phí trong công cuộc chống dịch”.
Hay như ngài Bộ trưởng Các vấn đề xã hội Indonesia Juliari Peter Batubara tháng 12-2020 đã bị bắt vì tội nhận hối lộ để ưu tiên cho một số công ty tư nhân quyền cung cấp gói cứu trợ cho người dân. Ông này vừa bị tuyên 12 năm tù hồi tháng 8 vừa qua.
Nói thế để cùng hiểu rằng, việc tham nhũng, hối lộ, trục lợi trong đại dịch là điều có thể và đã xảy ra bất cứ ở đâu trên thế giới. Thậm chí có thể nói đó là một hành vi kinh tế mang tính phổ quát.
Việt Nam cũng không ngoại lệ.
Nếu áp dụng các hướng dẫn phòng chống tham nhũng của EU vào câu chuyện số lượng sử dụng và giá cả kit xét nghiệm, chúng ta có thể thấy được các điểm: Việc mua sắm kit xét nghiệm (có thể) không minh bạch, không công bằng và (có thể) bị ảnh hưởng bởi vận động hành lang của các nhóm tư nhân. Tiếp đến, tần suất và số lượng test mẫu, vốn là chuyện của các nhà chuyên môn, người dân khó lòng có được chỉ một câu trả lời duy nhất.
Nhưng nếu như có một sự liên thông về số liệu thì các tổ chức kiểm toán nhà nước có thể biết được số lượng tồn kho và đặt hàng của các nguồn cung kit xét nghiệm là bao nhiêu, đối chiếu với nhu cầu sử dụng thật. Từ đó phần nào biết được: (1) Liệu có phải vì một số công ty nhập quá nhiều nên ngành y tế yêu cần người dân phải test thật nhiều cho hết tồn kho?; và (2) Chi phí test có quá cao so với mặt bằng chung?
Tất nhiên, nói đi cũng phải nói lại.
Việc kiểm định mức giá mua vào và mức giá đến tay “người tiêu dùng”, ở đây là người được xét nghiệm, như thế nào cũng là của các cơ quan chuyên môn, người dân sẽ không đủ kiến thức và dữ liệu để phán định như thế nào là rẻ, như thế nào là đắt. Những thông tin trên báo chí rằng công ty nước ngoài chào bán chỉ 35.000 đồng trong khi giá đấu thầu lên đến 70.000 - 80.000 đồng cho một bộ kit xét nghiệm nhanh nên được nhìn nhận ở góc độ chi phí - lợi nhuận một cách thận trọng.
Một sự thật không chỉ ở Việt Nam mà là ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới là việc mua bán các sản phẩm có hàm lượng R&D cao như sinh phẩm y tế, năng lực đàm phán mua hàng nằm ở các công ty tư nhân có kinh nghiệm và thông thạo quy trình mua bán chứ không ở cơ quan mua sắm công của Nhà nước.
Mua vắc xin là một ví dụ khác. Không một cơ quan nhà nước nào có đủ quyền và quy trình để bỏ tiền ra mua vắc xin khi nó chưa có kết quả thử nghiệm thành công. Trong khi một doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể “đặt cược” trên cơ sở thuận mua - vừa bán, có bảo hiểm rủi ro, có chấp nhận tổn thất.
Việc của cơ quan công quyền, mà cụ thể ở đây là Bộ Y tế và các cơ quan thanh tra kiểm toán, là đưa ra được bộ công cụ kiểm soát đủ mạnh, có khả năng thực thi, có năng lực nhìn thấy trước, để giảm thiểu tình trạng trục lợi trong việc mua bán, cung cấp sinh phẩm, thiết bị y tế trong điều kiện đặc biệt như dịch bệnh.
Theo như thông báo của Bộ Y tế thì ngày 11-8, bộ này ra công văn số 6547/ BYT-TB-TC đề nghị nghiêm cấm việc tăng giá, đầu cơ, tích trữ..., đồng thời bản thân bộ chỉ tiếp nhận vật tư, sinh phẩm y tế... qua nguồn tài trợ - viện trợ hợp pháp. Nhưng lúc này, mọi sự hầu như đã rồi.
Trong một nền kinh tế thị trường tự do thật sự, phải chấp nhận việc mua - bán thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế... là cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng phải thấy đó là một trạng huống không phải “thuận mua vừa bán” như thông thường, mà là tình thế người tiêu dùng cuối cùng không có quyền trả giá, ít ra là trong ngắn hạn.
Thời cơ đấy với các doanh nghiệp tư nhân sẽ biến mất rất nhanh, đồng nghĩa nguy cơ tham nhũng, hối lộ, trục lợi là điều có thể thấy trước, trong tất cả các khâu, nhập khẩu, người mua trung gian, người ra quyết sách phòng dịch..., để người bán bảo đảm rằng họ giữ được giá bán cao nhất trong thời gian lâu nhất có thể mà người tiêu dùng không có quyền từ chối. Sự trục lợi như thế rõ ràng là phi thị trường và chỉ có thể giảm thiểu khi cơ quan nhà nước có sẵn và thực thi hiệu quả những bộ quy tắc về minh bạch và đạo đức.
Kết quả, người thua thiệt là người đóng thuế, thông qua việc ngân sách nhà nước bị lãng phí. Tầng lớp bị thiệt hại nhiều nhất là những người dễ bị tổn thương nhất trong dịch, những người mà cho đến giờ nếu cần đi làm mà chưa đủ hai mũi tiêm thì buộc phải có kết quả xét nghiệm âm tính.
Những điều tốt đẹp mà y bác sĩ và nhân viên của Bộ Y tế đã tận hiến cho công cuộc chống dịch đáng cho hàng chục triệu người tri ân. Còn những gì mà một số người có thể đã trục lợi bằng cách cấu kết bất chính, gây lãng phí ngân sách của quốc gia, tức tiền thuế của nhân dân, và làm lung lay niềm tin của người dân, cũng cần được nhà chức trách điều tra và đưa ra kết luận. Đấy phải được xem là một tiến trình cần phải thực hiện ngay cả khi dịch chưa chấm dứt, ít nhất là nếu nhìn từ nhận thức và sự thông hiểu của người dân.
Lao động nhập cư ở Ấn Độ được cho là chịu ảnh hưởng nặng nề nhất mỗi lần có phong tỏa toàn quốc vì COVID-19, bởi nó khiến họ mất việc làm và phải vượt hành trình vất vả rời phố về quê. Nhiều người đã trở lại khi tình hình tạm ổn, để rồi phải một lần nữa đối mặt với hiểm nguy mà quay về bản quán.
Trong cuộc khủng hoảng COVID-19, lao động nhập cư Ấn Độ đã hai lần vội vã ra đi, rời bỏ các thành phố lớn để quay về làng quê. Đầu tiên là vào tháng 3-2020, khi nước này phong tỏa toàn quốc lần đầu để phòng dịch. Cuộc phong tỏa được xếp vào loại nghiêm ngặt nhất thế giới khiến hàng triệu việc làm biến mất chỉ sau một đêm. Hàng chục triệu lao động thu nhập thấp khi đó đã cùng gia đình tháo chạy khỏi các thành phố bằng mọi phương tiện có thể - xe lửa, xe khách, xe tải chở hàng, xe đạp và thậm chí đi bộ - để về quê cách xa hàng trăm dặm. Về quê dẫu gì chi phí sống cũng thấp hơn và còn có bà con lối xóm.
Đó là một hành trình đầy hiểm nguy. Các tổ chức thiện nguyện ước tính hàng trăm người đã chết vì kiệt sức trên các xa lộ nóng bức, gặp tai nạn trên đường.
Khi tình hình dịch được kiểm soát, nhiều công nhân trở lại thành phố. Và chỉ mới đi làm lại sau nhiều tháng thất nghiệp, họ đã phải đối mặt với làn sóng COVID-19 thứ 2 vào tháng 4-2021. Theo Reuters, giới chức Ấn Độ cho rằng đợt phong tỏa lần này ít nghiêm trọng hơn so với lúc đầu dịch vì các ngành công nghiệp không phải dừng hoạt động hoàn toàn và hệ thống xe lửa vẫn còn hoạt động. Tuy nhiên, làn sóng “di cư ngược” từ phố về quê vẫn diễn ra, vì người lao động lúc này sợ virus hơn là sợ đói.
“Tôi đọc mọi thứ về số ca nhiễm, tử vong và cảm thấy lo lắng. Tôi vẫn còn việc làm nhưng không muốn ở lại thành phố” - Sanjit Kumar, 30, nói với Reuters, sau khi bắt xe lửa rời thành phố Surat ở bang miền tây Gujarat về làng ở bang miền đông Bihar, một tuần trước khi chính thức có lệnh phong tỏa. Năm ngoái, Kumar cũng tháo chạy bằng xe tải. Nhiều người cũng chấp nhận bỏ việc về quê sớm như Kumar, vì sợ đến lúc phong tỏa thì chẳng có phương tiện để đi.
“Tôi vẫn nhớ chuyện gì đã xảy ra lần trước, tôi cần phải rời khỏi đây” - Kaleem Ansari nói với The New York Times khi đang cùng hàng ngàn người ngồi bên ngoài ga xe lửa trung tâm ở Mumbai đợi chuyến tàu về quê cách đó hơn 1.500km. Nhà máy giày dép của Ansari phải đóng cửa khi Mumbai phong tỏa để ngăn đà lây lan của làn sóng COVID-19 thứ 2. Trong đợt phong tỏa tháng 3-2020, Ansari quyết ở lại Mumbai và sau đó thề sẽ không bao giờ làm thế nữa. Nên lần này anh quyết về quê, dù balô không có gì ngoài chút quần áo cũ và trong túi có vỏn vẹn 200 rupee (60.000 đồng).
Cuộc tháo chạy năm ngoái đã cho thấy đường về vô cùng nguy hiểm nhưng sao họ vẫn quyết ra đi? Bởi ở lại thành phố là đối mặt với hệ thống y tế quá tải, bệnh viện hoạt động hết công suất, thiếu oxy, thiết bị và cả nhân viên y tế. “Tôi không muốn mắc bệnh mà chỉ có một mình. Số ca nhiễm [ở thành phố] đang tăng, và vợ tôi nói, chuyện làm ăn không ổn, sao anh không về nhà? Về, ít nhất vợ chồng còn có nhau” - Ajay Kumar, làm nghề bán case điện thoại ở Bangalore, nói.
Ahmad Sheikh, làm việc tại một quán cà phê ở Mumbai, nói chỉ có người giàu mới chịu nổi một đợt phong tỏa nữa. Sheikh rời Mumbai từ giữa tháng 4. Anh nói thà chết ở quê còn hơn ở thành phố “đối xử với chúng tôi như đồ dùng xong rồi bỏ”.
Đã có kinh nghiệm từ việc người lao động ồ ạt đổ về quê năm 2020, trong sự vụ hồi tháng 4, chính quyền trung ương và các bang, tổng công ty đường sắt Ấn Độ cùng nhiều tổ chức phi lợi nhuận đã cố gắng trợ giúp để người dân đến nơi an toàn.
“Chúng tôi sẽ đưa [người lao động] về quê và giúp họ cách ly. Chúng tôi sẽ không khuyến khích họ ở lại các thành phố nữa” - Liby Johnson, giám đốc điều hành tổ chức phi lợi nhuận Gram Vikas, nói.
Chính phủ mở lại đường dây nóng giúp đỡ cho công nhân cần đặt vé tàu về quê hoặc các hỗ trợ khác. “Lượng cuộc gọi không nhiều như năm ngoái. Tình hình không hoảng loạn lắm vì các dịch vụ giao thông không bị dừng hoạt động. Chính phủ lần này có chuẩn bị hơn lần trước” - DPS Negi, quan chức Bộ Lao động và việc làm Ấn Độ, khẳng định.
Trong một bài viết trên The Conversation tháng 6-2021, Malavika Rao, nghiên cứu sinh tiến sĩ luật quốc tế tại Viện Nghiên cứu quốc tế và phát triển Geneva, cho rằng người lao động phải tháo chạy về quê lẽ ra đã có thể được bảo vệ tốt hơn, và Ấn Độ đã có thể tránh được một đợt “di cư ngược” ồ ạt lần 2, vì luật đã sẵn có, chỉ cần được vận dụng linh hoạt hơn.
Theo Rao, cũng là rời chỗ đang ở sang nơi khác để an toàn tính mạng nhưng nạn nhân phải di tản vì thiên tai lại được hưởng nhiều hỗ trợ và bảo vệ hơn những người phải tháo chạy vì COVID-19. Tác giả lấy ví dụ đợt sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 từng khiến khoảng 650.000 người ở Ấn Độ mất nhà cửa. “Điểm khác biệt giữa [sự kiện này và COVID-19] là người bỏ chạy để tránh sóng thần được luật pháp bảo vệ bằng các đợt sơ tán và biện pháp khôi phục sau đó, còn người chạy trốn COVID-19 tiếp tục được xem là lao động nhập cư và để mặc cho số phận” - Rao viết.
Theo tác giả, Ấn Độ thường xuyên áp dụng Đạo luật quản lý thảm họa năm 2005 để đánh giá rủi ro, di dời người dân và giảm thiểu tác động sau thực tế mỗi khi có thảm họa tự nhiên. Lẽ ra Chính phủ Ấn Độ nên áp dụng đạo luật này ngay từ đợt phong tỏa COVID-19 đầu tiên, nếu hiểu thảm họa theo nghĩa không chỉ có thiên tai mà còn gồm thảm họa sinh học như dịch bệnh và đại dịch. Nếu làm vậy, người lao động nhập cư đã có thể được “di tản” về quê an toàn hơn và nhận được các hỗ trợ cần thiết.
Theo báo The Economic Times của Ấn Độ ngày 21-9 vừa qua, việc người lao động ồ ạt rời thành phố để về làng vì COVID-19 sẽ ảnh hưởng đến thị trường lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn: “3 vụ mùa, nửa tá lễ hội và 2 làn sóng COVID-19 khác đã diễn ra từ đợt phong tỏa toàn quốc đầu tiên, nhưng hàng trăm ngàn lao động “di cư ngược” trước đó vẫn chưa quay lại thành phố”.
The Economic Times dẫn lời Pravin Agarwala, giám đốc điều hành nền tảng quản lý tuyển dụng lao động Betterplace, cho biết sau đợt tháo chạy, lượng lao động di cư từ quê lên phố để làm việc đã giảm gần 10%. Điều này xuất phát từ nhiều yếu tố: sau hành trình về quê bão táp, nhiều công nhân thích ở với gia đình hơn và tìm việc mới ngay tại địa phương. Ấn Độ cũng có nhiều chương trình hỗ trợ người lao động có thể kiếm sống gần nhà. Số lượng việc làm cũng không thiếu vì có nhiều công trình hạ tầng nông thôn đang được triển khai. DPS Negi, quan chức Bộ Lao động và việc làm, chỉ ra các nguyên nhân khác: “Nhiều người không muốn quay lại thành phố vì sợ COVID-19. Họ cũng không chắc về tình hình việc làm ở đó”.
Chính phủ Ấn đã dành gần 5,5 ngàn tỉ rupee cho nhiều chương trình phúc lợi và dự án phát triển nông thôn khác nhau. Sachchidanand Shukla, kinh tế gia trưởng Tập đoàn Mahindra Group, nhận xét các hỗ trợ này đã giữ chân người lao động ở nông thôn trong khi khối doanh nghiệp đang mong họ sẽ sớm trở lại thành phố.
Theo các chuyên gia, việc công nhân chịu rời quê để quay lại thành thị phụ thuộc vào tốc độ phủ vắc xin ở các bang chuyên cung ứng lao động như Uttar Pradesh, Andhra Pradesh, Bihar, Jharkhand và Odisha. “Tiến độ tiêm chủng chậm ở các bang này là một cản trở lớn đối với việc người lao động quay trở lại” - Rituparna Chakraborty, phó chủ tịch điều hành trang tuyển dụng TeamLease Services, nhận xét.
Vẫn có nhiều triển vọng lạc quan rằng làn sóng di cư sẽ sớm trở lại “đúng chiều”, nghĩa là từ quê lên phố. Niranjan Hiranandani, giám đốc điều hành Tập đoàn phát triển bất động sản Hiranandani Group, nhận xét: “Nỗi sợ COVID và phong tỏa khiến người ta chần chừ trở lại thành phố tìm việc làm. Nhưng khi chuyện làm ăn khôi phục và sự sợ hãi giảm dần, sẽ lại có những làn sóng rời nông thôn Ấn Độ lên phố. Chỉ riêng ngành nông nghiệp sẽ không thể cung cấp việc làm cho nhiều người. Xu hướng di cư từ nông thôn ra thành thị sẽ không suy giảm trong vài năm tới”.
Tối đa: 1500 ký tự
Hiện chưa có bình luận nào, hãy là người đầu tiên bình luận